91. Trò chơi: DE – ÙM
* Cách chơi: Người chơi chủ lật bàn tay của mình lên và tất cả người chơi cùng đưa ngón tay chỏ của mình đặt vàobàn tay của người chơi chủ. khi người chơi chủ hô to de………ùm thì tất cả người chơi phải mau chóng rút tay của minh lại không để cho người chơi chủ chụp được.
* Luật chơi: Động tác làm phải nhanh và tay của người chơi nào bị người chơi chủ chụp được thì xem như thua cuộc
92. Trò chơi: TÁN U
* Cách chơi: Chia làm 2 đội chơi và kẽ vạch ở giữa 2 đội, người chơi của đội A chạy ra khỏi vạch sang đội đối phương B nhưng mịêng vẫn phải la U để chạm vào người chơi của đội B và tìm cách chạy về đội của mình. Riêng đội B khi người chơi bên đội A này chạy sang thì phải tìm cách giữ lại cho đến khi người đó ngừng U. nếu người chơi của đội A bị bắt thì người khác bên đội A có thể chạy sang cứu bạn nhưng vẫn phải U và làm sao chạm được vào người của bạn bên đội mình thì người kia sẽ được cứu.
* Luật chơi: Trò chơi đòi hỏi hơi phải dài, nếu người chơi đội nào bị bắt nhiều thì xem như thua cuộc.
93. TRÒ CHƠI CƯỚP CẦU
Trò diễn cướp cầu xưa ở Động Phí (Hà Tây)
Theo các cụ cao niên trong làng Động Phí, xã Phương Tú(Ứng Hòa) Hà Tây kể lại vào khoảng trước năm 1945, những năm khô hạn giống như năm con Tuất này, các cụ bô lão trong làng tổ chức lễ hội Đảo vũ vào dịp Giêng Hai để cầu trời mưa. Trong lễ Đảo vũ có trò diễn cướp cầu nổi tiếng xưa ở tỉnh Hà Đông. Đây là trò diễn vừa mang tính tín ngưỡng, vừa mang tính thể thao.
Như đã nói ở trên, hễ năm nào nắng nóng khô hạn, hết tháng hai âm lịch mà trời vẫn không mưa là các cụ cao niên làng Động Phí quyết định tổ chức tổ chức lễ Đảo vũ. Kiệu thánh được rước đến miếu Cò hay còn gọi là quán Cò. Miếu Cò là nơi thờ hai anh em Bạch Tượng, Bạch Địa và Đô Đài là ba vị tướng tài của Đinh Bộ Lĩnh, có công lớn trong việc dẹp loạn 12 sứ quân thế kỷ thứ 10 được dân làng thờ phụng. Kiệu thánh được bầy trước cửa miếu Cò một tuần lễ thì được rước về đình Đụn. Đình đụn là ngôi đình to, đẹp gồm 15 gian bổ dọc hình chữ nhất. Tại đây, các bô lão tế đảo vũ ở cửa đình, còn ở ngoài dân làng tổ chức trò diễn cướp cầu. Bãi cướp cầu chia thành hai khu sân được phân định ranh giới bởi cổng nghi môn của đình Đụn. Sân trong thuộc hướng đông là khoảng đất phía trong cổng đình và sân ngoài thuộc hướng tây là khoảng đất phía ngoài cổng đình. Điểm cuối mỗi phần sân trong, sân ngoài và điểm giữa của vạch ranh giới đều đào một hố đất sâu, kích cỡ bằng nhau, đồng thời cả 3 hố phải thẳng hàng nhau. Lấy hố giữa làm tâm điểm, nhất thiết khoảng cách giữa hố trước và hố sau phải bằng nhau. Phần sân thì như vậy, còn quả cầu để hai bên tranh cướp là củ cây chuối hột được đẽo tròn to gần bằng chiếc nồi cấn bôi phẩm đỏ. Quân tham gia cướp cầu phải là nam giới, được chia làm hai lực lượng. Lực lượng thứ nhất gọi là quân chạy gậy, tương tự như trọng tài trong đấu vật mặc quần áo lương dài, thắt lưng đỏ, đầu chít khăn đỏ. Lực lượng thứ hai là quân cướp cầu, cởi trần đóng khố, được chia đều cho mỗi bên hai phía sân trong, sân ngoài gọi là quân tổng thượng và quân tổng hạ. Tổng thượng cử một cụ cao niên có uy tín mặc trang phục màu đỏ, chít khăn đỏ, đai lưng đỏ, tay cầm cờ đỏ làm hiệu lệnh phất cờ để chỉ đạo quân mình về đem cầu bỏ vào hố. Tổng hạ cũng cắt cử một cụ bô lão uy tín với sắc phục và cờ màu xanh để chỉ đạo quân bỏ cầu vào hố bên mình. Đứng cạnh hai cụ là người đánh trống, đánh chiêng đồng làm hiệu lệnh thúc giục. Bắt đầu vào trận, quả cầu củ chuối được đặt ở hố giữa cổng nghi môn. Khi có hiệu lệnh của chủ đám, quân chạy gậy ra hố giữa bẩy quả cầu lên mặt đất và rút gậy chạy ra ngoài. Liền đó, quân hai bên xô tới theo hiệu lệnh trống, kẻng và hướng cờ chỉ giằng cướp quả cầu đem về phía bên mình. Qủa cầu bằng củ chuối vừa tròn lại dính nước cộng với nhựa rỉ ra, gây trơn rất khó cầm nên việc tranh cướp không đơn giản.
Do vậy, hai bên cướp cầu quyết liệt kéo dài hàng vài ba giờ đồng hồ mới đưa được cầu vào hố. Mỗi lần như vậy gọi là một keo giống như trong đấu vật. Một ngày hai bên phải tranh cướp cầu ba keo. Bên nào cướp được cầu bỏ hai lần vào hố trong một ngày là thắng cuộc. Trò cướp cầu diễn ra ba ngày liên tiếp với 9 keo. Ngày thứ ba sau khi cuớp đủ 9 keo BTC công bố bên thua, bên thắng. Sau khi công bố thắng thua, quân chạy gậy mang quả cầu từ hố bên thắng đem lên mặt đất lăn cầu đi quanh bãi vài vòng rồi thả xuống giếng đình. Cầu củ chuối nổi trên mặt nước đợi đến khi trời mưa to thì vớt lên bỏ đi. Theo tâm niệm của người dân Động Phí, trong ba ngày diễn ra cướp cầu tiếng trống thúc, chiêng giục cộng với tiếng reo hò đã đánh động mặt trời nên không gây khô hạn với con người và mưa sẽ đổ xuống tưới mát đồng ruộng làm cho mùa màng tươi tốt. Nếu trời đổ mưa n_ thì người dân Động Phí tâm niệm thành hoàng làng linh thiêng phù trợ cho dân và dân làng phải tế tạ Thánh vài ngày.
Ngày nay, ở Động Phí không còn nghi lễ đảo vũ với trò diễn cướp cầu, nhưng trong tâm trí các cụ cao tuổi vẫn còn in đậm dấu ấn. Đây là một nét sinh hoạt văn hóa, thể thao độc đáo của địa phương đang được dân làng có kế hoạch khôi phục trong thời gian tới. Cách Động Phí không xa, ở vùng Bương Rổ, xã Nghĩa Hương( Quốc Oai), người dân nơi đây vào dịp đầu xuân hàng năm vẫn thường tổ chức trò diễn cướp cầu.
Lễ hội cướp cầu vùng Yên Thế
Hàng năm, cứ vào tháng giêng âm lịch, các làng Ngọc Cục (Việt Ngọc), kép Thượng (Lam Cốt), Phúc Lễ (Phúc Hòa), Làng Lý (Ngọc Lý)… thuộc miền hạ Yên Thế, nay là huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang, mở hội cướp cầu mừng xuân. Hình thức tổ chức tùy theo làng lớn, làng nhỏ mà cách làm khác nhau. Làng nhỏ chia làm 2 giáp, làng vừa thì 4 giáp, theo lượng người mà phân chia. Những trai đinh dự thi thường là người cường tráng, nhanh nhẹn. Hình thức trang phục tùy thuộc sự quy định của từng làng. Có làng người dự thi cởi trần, đóng khố lụa đủ màu sắc xanh đỏ sặc sỡ, tay cầm một chiếc móc có cán dài. Có làng lại để cho trai đinh mặc quần áo, chít khăn màu trên đầu, ngang lưng thắt bao lụa các màu rực rỡ, tay không dùng để cướp cầu.
Ðịa điểm làm nơi cướp cầu có khi là sân đình là bãi rộng cửa đình, hay bãi rộng bên đình. Vào giờ lễ hội cướp cầu, trai đinh các giáp vạm vỡ trong trang phục nhiều màu sắc rực rõ, chắc khỏe, đứng tề chỉnh, trang nghiêm trước sân đình với khí thế hừng hực, quyết thắng.
Ông cai đám mặc áo dài quần chùng tề chỉnh, đầu đội khăn điều uy nghi dõng dạc chúc tụng gieo cầu:
“Dân làng ai mở hội cướp cầu
Chúc cho tốt lúa sai cau
Chúc cho trai gái lấy nhau thuận hòa
Chúc cho tốt bông tốt hoa
Chúc cho làng xóm trẻ già bình yên”
Vừa dứt xong các trai các giáp dạ ran, ông gieo cầu xuống. Quả cầu được sơn son thiếp vàng, màu sắc rực rỡ, hấp dẫn. Trai các giáp xô nhau cướp, ngăn chặn, luồn lách tranh cướp lấy cầu đỏ ôm được vào lòng. Ðây là cả một sự vật lộn, tranh giành, đua chen khá quyết liệt, đòi hỏi không chỉ có lực, mà còn phải có trí, có mưu, dũng mãnh mới mong giành phần thắng. Trong khi đó, chiêng trống của làng giục giã liên hồi, rộn ràng, sôi nổi, dân làng của các giáp đứng quanh đông đảo vòng trong, vòng ngoài. Trẻ em còn leo lên cả các cây cao quanh đó xem. Người người già trẻ gái trai cổ vũ, hò reo khích lệ trai đinh giáp mình, làng mình phải giành giật cướp cho được cầu, phải giữ cầu cho chặt.
Các đám tiếp tục khích lệ, cổ vũ, xướng xuất: “Bớ giáp Ðông… Bớ giáp Ðoài… Tất cả sức trai – Giờ cướp cầu đã đến – Hai bên cùng phải tiến – Khi quả cầu lăn – Chớ có lui chân – Phải giành phần thắng”. Cứ sau mỗi câu là trai tráng, dân làng hòa theo reo hò rộn rã, tưng bừng, sục sôi. Ðược cổ vũ như tiếp thêm sức mạnh, trai đinh các giáp càng dũng mãnh xô nhau tranh cướp hết sức _ go, quyết liệt. Giáp nào cũng quyết thắng khiến hội cướp cầu càng thêm hấp dẫn. Cuối cùng, trai đinh giáp nào cướp được cầu, ôm lấy, chạy vào đặt được trong cung đình là thắng cuộc. Cuối cùng, quả cầu được đặt đúng vị trí tôn nghiêm. Cả giáp, cả làng, cả hội đều vui sướng. Chiêng trống rền vang dồn dập, liên hồi, người người già trẻ gái trai reo hò vang cầu trường. Giáp thắng cuộc được làng thưởng và mừng vì năm ấy cả làng, cả giáp gặp may, bình an, làm ăn phát đạt, giàu sang, thịnh vượng
94. Trò chơi “bơi chải”
Rau là thôn Cựu ấp, xã Liên Châu (Yên Lạc), có tiệc bơi chải từ ngày 10 đến 12 âm lịch với 4 chải giáp, thân chải và dầm chèo đều sơn đỏ. Các tay chèo mặc áo xanh đỏ, thắt lưng đai màu.Chải xuất phát từ bến đình bơi sang bô# beân kia, mọi người nhảy ùa lên bờ cướp lấy các né tằm bày ở bãi đem về. Có khi hai chải cùng đến xô vào nhau diễn ra cảnh cướp né tằm.Sau Rau là Hạc. Chải Bạch Hạc bơi đua vào ngày 15/5, có 2 giáp thi đua, mỗi giáp 2 chải, mỗi chải một màu sơn: xanh, vàng, trắng, đỏ. Mỗi chải 50 tay chèo, 1 người lái, một người cầm cờ, 1 người thủ hiệu gõ mõ là nhịp cho các tay chèo. Các chải của Bạch Hạc là thuyền độc mộc, không có thuyền ván ghép.
Me là xã Yên Lập (Vĩnh Tường) bơi trong 3 ngày từ 25 đến 27 âm lịch. Ngày 25 bơi trình thuyền trên sông Phó Đáy trước đình rồi bơi thi, ngày 26 rước kiệu trên 3 cái chải ghép vào nhau, trên lát ván, bơi tới một doi đất giữa sông làm lễ đón thần linh, ngày 26 bơi thi có chấm giải, chiều gác chải. Chải làng Me tạo dáng “đầu rồng đuôi tôm”, sơn son thiếp vàng. Vào cuộc đua là 3 chải của 3 xóm, mỗi chải 38 tay chèo, đường đua dài khoảng 2km, đến điểm đích cướp cờ cắm ở thân chuối đem về, giải nhất là cờ đỏ rồi thứ tự là cờ vàng, cờ xanh.
Xã Đức Bác (Lập Thạch) bơi chải vào ngày tiệc Bát Nàn công chúa, tướng của Hai Bà Trưng, vào mồng 10/6, bơi qua sông Lô sang xã Phượng Lâu cướp một nồi mạ đem về.
Dạng là xã Tứ Yên (Lập Thạch) bên sông Lô, có hội đua chải vào các ngày 25 và 26/6. Tứ Yên có 4 thôn: Yên Lương, Yên Phú, Yên Mỹ, Yên Lập, mỗi thôn một chải, mỗi chải 46 tay chèo, bơi từ bến Yên Lương tới bến Yên Lập lại bơi trở về. Dọc sông theo đường bơi đều cắm cờ.
Vào ngày 26 cả 4 chải đều rước một bát hương từ đình làng mình sang bờ bên kia thuộc xã An Đạo (Phù Ninh, Phú Thọ) với ý nghĩa đón vua Hùng sang với trang trại Yên Lương, Yên Lập là 2 Yên đầu tiên của Tứ Yên và là do Tản Viên Sơn Thánh chiêu dân lập ấp mà thành.
95. Trò chơi: “Tục đánh quân”
Tục đánh quân có ở nhiều nơi, mỗi nơi có dáng vẽ riêng và gắn liền với những điển tích khác nhau như: Làng Tuân Lộ Phù Chính (Tuân Chính, Vĩnh Tường), xã Lý Nhân (Vĩnh Tường), xã Liên Châu (Yên Lạc).
Riêng tục đánh quân ở làng Yên Thư (Yên Phương, Yên Lạc) lại có nguồn gốc “Mục đồng đánh quân” và “Chợ mục đồng”. Đó là hình thức vừa chơi vừa tập trận tương truyền do vua Đinh Tiên Hoàng hướng dẫn khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan.
Hàng năm vào ngày 23 tháng Chạp, trẽ trong làng chia làm hai phe cầm sào, gậy đánh nhau, bên nào có em ngã trước là thua. Đánh giặc xong các em về nhà ăn cơm, buổi chiều mặc áo mới rủ nhau đi họp “Chợ mục đồng”, lúc này các em rất thân mật với nhau, kẽ mua người bàn tấp nập như 1 phiên chợ thực sự với những hoa quả bánh trái bày ra. Đây là cuộc mua sắm để khao quân. Giải thưởng là 3 sào ruộng bán chương để lấy tiền chia cho các xóm – ba sào ruộng gọi là “Ruộng mục đồng”.
96. Trò chơi: “Kéo song Hương Canh”:
Làng Hương Canh (Bình Xuyên) tổ chức kéo co ở sân đình Ngọc và sân đình Hương. Dựng một cột lim chắc khoẽ ở sân đình có đục lỗ luồn một dây song dài kéo qua.
Bốn đơn vị thi kéo co là làng Hương, làng Tiên, làng Ngọc và thông Đại Đồng. Khi trong đình tế xong thì nổi tiếng trống chiêng để cuộc kéo co bắt đầu.
Mỗi bên cử 25 tráng đinh vào kéo, đầu bịt khăn đỏ, lưng thắt bao đỏ. Bên nào cũng có một người cầm cờ đuôi nheo để chỉ huy. Người cầm chịch ấy còn gọi là “Ông lấy mực”. Do co kéo nhau nên nhiều sợi dây song cọ vào lỗ cọc lim bị nóng bốc khói làm sợi dây bị cháy, đứt đôi, người 2 bên lại ngã bổ ngửa chồng lên nhau.
Mỗi buổi chiều làng thi kéo co 4 hiệp. Cứ sau 30 phút lại nghỉ giải lao. Phần sợi song của mỗi bên tính từ giữa cọc ra 1m có buộc vải màu đánh dấu. Nếu bị đối phương lôi mạnh chỗ đánh dấu chui vào lỗ cọc thì bị thua. Bên thắng được làng thưởng hậu hĩnh bằng gạo, lợn hoặc bò đủ cho trai đinh giáp mình sửa cỗ bàn ăn uống mừng thắng trận.
97. Trò chơi “Tả cáy”:
Nhiều người làng Sán Dìu ở vùng Thanh Lanh (Bình Xuyên) xưa có trò chơi “Tả cáy” (có nghĩa là “Đánh gà”).
Con gà làm bằng gỗ tiện tròn bằng quả bóng bàn. Có thể có từ 5 đến 10 người cùng chơi, mỗi người cầm một cái gậy dài hơn một mét bằng tre hoặc bằng gỗ. Đào một cái lỗ bằng cái bát con ở giữa bãi chơi để “Con gà” dưới lỗ. Người đứng cái cầm gậy đẩy con gà ra khỏi lỗ. Những người khác dùng gậy hối gà vào lỗ. Người đứng cái vừa dùng gậy hối và đi vừa phải để ý đỡ đòn kẽo gậy của người khác đập trượt vào chân mình. Người nào đứng cái giỏi giữ cái lâu nhất không có gà lọt xuống được coi là thắng cuộc. Khi để “gà” lọt xuống lỗ thì người “cái” phải làm “con” để người vừa hối gà xuống lỗ được đứng cái.
98. Trò “Leo cầu ùm”:
Trò này có ở Bình Dương (Vĩnh Tường), Xuân Hoà (Lập Thạch), Đạo Đức (Bình Xuyên). Cầu ùm là một cây tre gốc được gác lên bờ ao chôn cọc giữ hai bên cho khỏi lăn, đầu ngọn được đặt trên cọc chéo mà lại leo bằng dây thừng. Khi có người lên cầu, cầu đung đưa, lủng liểng làm cho cuộc chơi thêm phần khó khăn hơn, nên càng hào hứng sôi động. ở đầu cầu trên ao có cắm cờ hiệu, người chơi leo lên cầu tới đầu cầu có cắm cờ, lấy lá cờ về là được cuộc. Phần nhiều những người dự chơi thường bị ngã “ùm” xuống ao vì thế gọi trò chơi này là trò leo cầu ùm.
99. Trò chơi: “Thi nấu cơm làng Tích Sơn”:
Làng Tích Sơn (nay là phường Tích Sơn, Vĩnh Yên), hội thổi cơm thi nổi tiếng khắp tỉnh Vĩnh Yên cũ. Muốn dự thi nấu cơm phải vào làng. Hàng năm hội thi nấu cơm tổ chức vào mồng 3 tết, tiêu chuẩn là nấu cơm không có cháy và róc nồi, mịn như cơm nắm có thể xắt ra từng miếng được, nồi cơm cũng giữ không có vết khói vết lửa. Những người dự thi sẽ chọn những chiếc niêu nung già chín đỏ, khi nấu dùng hai niêu một đồng một đất, niêu đồng đun nước, khi nước sôi đổ sang niêu đất. Gạo vo từ trước, cho nước rồi ghế đều lên, đun bằng than. Cũng có người không dùng bếp than nấu nước sôi mà bỏ gạo vào niêu đất đổ nước sôi vào lại chắt ra, cứ lặp đi lặp lại động tác này cho tới khi cơm chín. Các chức dịch hào lý cũng được thi, nếu hai nồi cơm ngang giải thì nồi cơm lý dịch sẽ được giải trên còn nồi bạch đinh bị đánh tụt xuống một cấp.
100. Trò chơi: “Tục đả cầu cướp phết”:
Tục đả cầu cướp phết được diễn ra chiều ngày 7 tháng giêng hàng năm tại đền Đông Lai, xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch.
Lễ thức đả cầu cướp phết được tiến hành song song giữa hai hình thức cùng một lúc:
1. Các trai đinh cởi trần cướp quả cầu bằng gỗ quý, đường kính 35cm (cướp tay không).
2. Các trai đinh cầm mồng phết có hình cong làm bằng gốc tre có khắc hình đầu long mã, dài 1m20. Trai đinh cầm mồng phết đuổi theo người cướp cầu bằng tay. Nếu ôm được quả cầu thì người cầm phết đuổi theo bổ và ngoặc.
Khi các cụ tế lễ xong thì quả cầu và 2 phết được xếp lên kiệu trước sân đình cộng đồng. Sau 3 hồi trống chiêng, cụ Mệnh ôm quả cầu đi dưới gầm kiệu, hàng trăm trai đinh (cởi trần, đóng khố, chít khăn đỏ) đứng chờ sẵn phía trước kiệu. Cụ Mệnh hô phép thần: Làm lễ ăn lễ, ăn trầu, búi tóc, vươn vai thì các trai đinh cầm phết làm động tác tương tự theo lời hô của cụ Mệnh và làm lễ 4 vái. Cụ Mệnh hô: Đón cầu, một trai đinh vào ôm cầu chạy ra cổng, mọi người đuổi theo ôm giằng lấy nhau cứ thế quả cầu được di chuyển dưới sự chỉ huy của người cầm cờ sai (thân hình to khoẽ, giọng vang như sấm, thắt lưng đỏ, đầu thắt khăn chéo, chân quấn xà cạp) hô to: Tiến lên! người cầm mồng phết đuổi theo vây quanh người cướp cầu. Không khí hội xuân thật náo nhiệt.
Từ cổng đình ra tới Mô phết 250m, Mô phết cao 1,5m trên thửa ruộng có diện tích 240m2. Khi kiệu đi đến Mô phết, một trai đinh khoẽ mạnh nhất ôm quả cầu đặt lên đỉnh mô phết, cụ Mệnh, cụ cầm phết làm động tác giao tranh, rồi tiếng trống liên hồi, sau 3 hồi kiệu rước về đền thì đám người cướp cầu tự do, núi người tiếp tục chồng lên nhau. Năm nào cũng vậy, phải đến 6 – 7 giờ tối mới rước quả cầu vào đền và phát thưởng cho trai đinh cướp được quả cầu. Các trai đinh người nào cũng dính đầy bùn đất nhưng rất vui vẽ với tâm trạng của người chiến thắng. Tục đả cầu cướp phết là ôn lại việc giữ đất, trấn ải của các tướng lĩnh thời Hùng Vương. Không khí toàn dân luyện binh đánh giặc giữ nước quả là còn rất đậm đà trong ký ức dân gian.
Nguồn: sưu tầm